Có nên đầu tư đất Yên Định không? Giá giao dịch nhà đất huyện Yên Định hiện nay [Thanh Hóa]

Có nên đầu tư đất Yên Định không? Giá giao dịch nhà đất huyện Yên Định hiện nay [Thanh Hóa]

Có nên đầu tư đất Yên Định không tại thời điểm hiện tại là câu hỏi được nhiều nhà đầu tư bất động sản quan tâm. Nhà đất Yên Định - Thanh Hóa là 1 từ khóa khá HOT trên mạng trong thời gian gần đây. Hãy cùng chúng tôi phân tích giá đất Yên Định tháng 04 năm 2024 bao nhiêu tiền thì mua được qua bài viết này nhé!

  1. Tại sao nên đầu tư đất Yên Định và không nên?
  2. Có nên mua đất Yên Định không?
  3. Điều kiện tự nhiên của Yên Định - Thanh Hóa
  4. Điều kiện kinh tế của Yên Định - Thanh Hóa
  5. Điều kiện xã hội của Yên Định - Thanh Hóa
  6. Điều kiện giao thông của Yên Định - Thanh Hóa
  7. Thông tin về huyện Yên Định
  8. Dự báo giá đất Yên Định
  9. Lời kết
  10. Biểu đồ giá đất Yên Định và xu hướng

Tại sao nên đầu tư đất Yên Định và không nên?

Yên Định là một huyện của Thanh Hóa với diện tích tự nhiên khoảng 229km2 và dân số khoảng 165,830 người, mật độ dân số khoảng 725 người/km2.. Yên Định giáp với các địa phương như: huyện vĩnh lộc (thanh hóa), huyện ngọc lặc (thanh hóa), huyện thọ xuân (thanh hóa), huyện thiệu hóa (thanh hóa), huyện cẩm thủy (thanh hóa), nên có điều kiện giao lưu với các huyện này, tuy nhiên do tiếp giáp toàn bộ với các huyện mà không có thành phố, thị xã nào nên cũng là điểm bất lợi cho đầu tư nhà đất tại Yên Định. đầu tư bất động sản gần cửa khẩu tại huyện Yên Định - Thanh Hóa cũng khá hấp dẫn, bởi lẽ Yên Định có cửa khẩu: . Như chúng ta đã biết, Yên Định có các địa điểm du lịch như: Chùa Báo Ân, Làng du lịch Yên Trung, đây cũng là một điểm cộng cho đầu tư bất động sản tại Yên Định.

Có nên mua đất Yên Định không?

Yên Định là một huyện có dân số trung bình của Thanh Hóa [725 người/km2] do đó, đầu tư bất động sản tại Yên Định sẽ có ưu điểm là giá ở mức trung bình, khả năng sinh lời và thanh khoản là có nhưng không cao, do đó bạn có thể xem xét đầu tư đất tại Yên Định .

Tùy khả năng kinh tế và nhu cầu của bạn mà lựa chọn phân khúc giá nhà đất Yên Định. Đối với Yên Định là một huyện của Thanh Hóa nên bạn có thể nghiên cứu mua nhà đất tại các địa phương có quy hoạch công nghiệp, du lịch... tại Yên Định và khu vực trung tâm của Yên Định như: Thị trấn Quán Lào, Thị trấn Thống Nhất, sau đó mới nghiên cứu đầu tư tại các xã Xã Định Bình, Xã Định Công, Xã Định Hải, Xã Định Hòa, Xã Định Hưng, Xã Định Liên, Xã Định Long, Xã Định Tân, Xã Định Tăng, Xã Định Thành, Xã Định Tiến, Xã Quí Lộc, Xã Yên Hùng, Xã Yên Lạc, Xã Yên Lâm, Xã Yên Ninh, Xã Yên Phong, Xã Yên Phú, Xã Yên Tâm, Xã Yên Thái, Xã Yên Thịnh, Xã Yên Thọ, Xã Yên Trung, Xã Yên Trường. Dù bạn mua đất Yên Định để làm gì thì cũng cần tìm hiểu trước về thông tin thửa đất như: thông tin quy hoạch, chanh chấp, thế chấp, sổ đỏ, thông tin chủ nhà đất.

Có thể bạn muốn xem thêm về giá đất đền bù khi giải phóng mặt bằng, lên thổ cư... liên quan đến huyện Yên Định:

bản đồ Thanh Hóa
bản đồ huyện Yên Định Thanh Hóa

bản đồ huyện Yên Định trong bản đồ Tỉnh Thanh Hóa

Phân tích giá bán đất Yên Định hiện nay

Mặc dù nhu cầu về nhà đất xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi nhưng giai đoạn tầm tháng 04 này thì các nhà đầu tư đi khảo sát và quan tâm đến thị trường đất đai hơn, trong đó không thể bỏ qua thị trường nhà đất Yên Định.

Dự báo giá đất Yên Định thời gian tới

Từ đầu năm 2022 đến nay, giá bất nhà đất có xu hướng chung là chững lại, có chăng cũng chỉ tăng ở một số vị trí, một vài loại sản phẩm nhà đất. Thậm chí ở nhiều nơi xa trung tâm, hạ tầng chưa đầy đủ giá đã giảm, nhà đầu tư dùng đi vay lãi nhiều đang phải tìm cách bán cắt lỗ để lấy vốn. Mặc dù nhu cầu về nhà đất xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi nhưng giai đoạn tầm tháng 04 này thì các nhà đầu tư đi khảo sát và quan tâm đến thị trường đất đai hơn, trong đó không thể bỏ qua thị trường nhà đất Yên Định.

Giá đất Yên Định sẽ tăng mạnh trong năm nay hoặc vào năm 2025? Điều này không thể nào chắc chắn bởi lẽ giá đất biến đổi rất khó lường do vậy, chưa chắc đã có cơn sốt đất Yên Định trong năm sau. Để tăng giá đất Yên Định thì các dự án phải có trong quy hoạch và các dự án trong quy hoạch cần được triển khai nghiêm túc.

Có thể bạn muốn xem thêm về giá đất đền bù khi giải phóng mặt bằng, lên thổ cư... liên quan đến huyện Yên Định:

Điều kiện tự nhiên của Yên Định - Thanh Hóa

Yên Định có diện tích 210,24 km² (21.024 ha), nằm ở phía tây bắc thành phố Thanh Hóa, thuộc vùng đồng bằng trung du – bán sơn địa, kẹp giữa lưu vực sông Mã và sông Cầu Chày.

Đồng bằng Yên Định được cấu tạo bởi phù sa trải ra trên một bề rộng hơi nghiêng về phía đông nam, còn rìa tây bắc là các dải đất cao từ 2,8m đến 15m, được cấu tạo bằng lớp phù sa cổ của sông Mã và sông Cầu Chày. Những đồi núi sót lại có độ cao trung bình 200m-300m, hợp nên từ các đá phún trào, đá vôi, cát kết và đá phiến.

Xa xưa, Yên Định được bao phủ bởi những cánh rừng rậm rạp, với lim ở Định Tăng, đinh ở Định Tường, rù rì ở Yên Phong cùng nhiều cánh rừng khác trải khắp vùng Yên Thọ, Yên Lạc, Định Hòa, Định Bình, Định Thành...

Ngày nay, rừng tự nhiên hầu như không còn, thay vào đó là những vùng đất trồng tre, luồng, đất trồng cây lâm nghiệp theo dự án 327, tập trung ở các xã Yên Lâm, Yên Giang, Nông trường Thống Nhất, Yên Tâm, Yên Thịnh, Yên Hưng, Định Tiến với diện tích 836 ha, chủ yếu trên đất dốc, cồn, bãi ven sông, hồ, đầm, hón, sông cụt.

Khí hậu, lượng mưa

Khí hậu của Yên Định thuộc dạng nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều, nền nhiệt cao, hàng năm có 1.700-1.800 giờ nắng; gió mùa đông bắc thịnh hành vào mùa đông, gió mùa tây nam thịnh hành vào mùa hè. Khí hậu như vậy là thuận lợi cho cây trồng phát triển, nhưng thiên tai, nhất là lụt bão và khô hạn luôn luôn là mối đe dọa đối với sản xuất nông nghiệp, tài sản và sinh hoạt của con người. Khi mưa đạt tới 200-300mm thường gây úng lớn. Tuy nhiên lượng mưa tập trung theo từng thời điểm và phân bố không đều trong năm nên dễ gây khô hạn cho một vùng rộng lớn, vì mạch nước ngầm bị khô kiệt hoặc gây ra nạn rửa trôi làm cho 25% ruộng đất bị bạc mầu.

Từ đầu nguồn đến Cẩm Thủy, sông Mã chảy cuồn cuộn bên những vách đá vôi đứng sững rồi chảy qua địa phận Yên Định với chiều dài 30,5 km, là ranh giới tự nhiên giữa 2 huyện Yên Định và Vĩnh Lộc. Sông Cầu Chày, tên là Ngọc Chùy, nước chảy bằng lặng, xưa nổi tiếng vì nhiều chướng khí nên có câu ca: "Cầu Chày chó lội đứt đuôi".

Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản của Yên Định chủ yếu là vật liệu xây dựng như đá vôi, cát sỏi, đất sét có trữ lượng lớn phân bổ khắp nơi. Riêng đất sét vùng Cẩm Trướng (Định Công) mỗi năm có thể sản xuất được từ 8-10 triệu viên gạch ngói.

Thủy văn

Do độ dốc lòng các con sông ở đây cao cho nên sự chênh lệch giữa chế độ thủy văn với địa hình khá lớn; chỉ cần mưa to thì hệ thống tự tiêu, tự chảy đã mất tác dụng. Công tác trị thủy ở Yên Định trở nên quan trọng và cấp thiết. Toàn huyện đã có 5 trục tiêu lớn (Tường Vân, Tân Bình, Yên Thôn, Cầu Khải, Kiểu) đảm bảo cho 3.000 ha đất canh tác trong điều kiện mưa lũ. Trạm bơm nam sông Mã và trạm bơm lẻ ở các xã đã khắc phục cơ bản vấn đề hạn cho hàng ngàn ha đất canh tác ở địa phương.

Hàng ngàn năm qua, nhân dân Yên Định đã bỏ bao công sức tạo nên hàng trăm km đê đại hà, đê quai, đê con trạch dọc các triền sông; nhưng cũng chỉ hạn chế được một phần tác hại do lũ lụt gây ra. Trong khi đó lại ngăn chặn việc bồi trúc phù sa cho các vùng trũng, do vậy đã tạo ra 3 khu vực lầy thụt rộng tới 3.500 ha:

– Vùng 1 có 3 xã: Định Hòa, Định Thành, Định Công.

– Vùng 2 có 4 xã: Yên Bái, Yên Trường, Yên Trung, Yên Thọ.

– Vùng 3 có 5 xã: Định Tân, Định Bình, Định Long, Định Liên, Định Hưng thuộc khu vực trũng nông.

Điều kiện kinh tế của Yên Định - Thanh Hóa

Kinh tế

Tốc độ tăng trưởng GDP: 9 - 10%/năm. Trong đó:

  • Nông nghiệp: 6,0 - 7,0%/năm
  • Công nghiệp - xây dựng 17 - 19%/năm
  • Dịch vụ - thương mại: 9%/năm
  • GDP bình quân đầu người: tăng gấp 1,5 lần so với năm 2005
  • Sản lượng lương thực: 150 nghìn tấn
  • Năm 2010, hoàn thành nâng cấp hệ thống y tế cơ sở, 100% trạm y tế xã có bác sĩ
  • Năm 2010, 80% số làng, 100% số gia đình đạt gia đình văn hoá.

Giáo dục

Truyền thống cử nghiệp ở Yên Định phát triển vào loại sớm nhất Việt Nam, khi đạo Nho mới có mặt ở một số vùng. Vào thế kỷ VIII, hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục, người làng Sơn Ôi (nay là Tường Vân – Định Thành) thi đỗ tiến sĩ ở đất Trung Hoa thời Đường Đức Tông (780-804), nắm giữ nhiều cương vị quan trọng trong triều đình. Khi đạo Nho phát triển chế độ khoa cử bắt đầu từ cuối thế kỷ XI, thì liền trong vài ba thế kỷ, Yên Định vẫn chưa có người nối được bước chân của người đi trước mà phải đợi đến cuối thời Trần vào năm 1384, mới có người giành được học vị Thái học sinh. Dưới triều Lê, Mạc và Lê Trung hưng, sự nghiệp khoa cử ở Yên Định được dịp khai hoa kết trái. Theo số liệu thống kê (có thể chưa đầy đủ) thì trong mấy trăm năm thi cử Hán học, cả huyện Yên Định có 11 vị đỗ đại khoa:

  1. Khương Công Phụ (Tường Vân – Định Thành) thi đỗ năm 784 (Trạng nguyên).
  2. Khương Công Phục (em ruột Khương Công Phụ) thi đỗ năm 784.
  3. Hoàng Hối Khanh (Bái Trại – Định Tăng) thi đỗ năm 1384.
  4. Trịnh Thiết Trường (làng Si – Định Bình) thi đỗ năm 1442 (Bảng nhãn).
  5. Yên Đôn Lễ (Chân Lữ – Định Long) thi đỗ năm 1532.
  6. Yên Đôn Phác (em sinh đôi với Yên Đôn Lễ) thi đỗ năm 1541.
  7. Trịnh Cảnh Thụy (Chân Bái – Yên Bái) thi đỗ năm 1592.
  8. Trịnh Minh Lương (Chân Bái – Yên Bái) thi đỗ năm 1680.
  9. Trần Ân Chiêm (Định Tường) thi đỗ năm 1715.
  10. Hà Tông Huân (Kim Vực – Yên Thịnh) thi đỗ năm 1724 (Bảng nhãn).
  11. Trần Thiên Sưởng (Khoái Lạc – Yên Phú) thi đỗ năm 1775.

Ngoài ra, Yên Định còn có gần 20 cử nhân đỗ vào thời Nguyễn: Trịnh Nguyên Thục (Yên Định), Phạm Xuân Bích (Tràng Lang), Trịnh Trí Viễn (Yên Định), Nguyễn Văn Giai (Văn Bái), Trịnh Đình Diễn (Diên Thượng), Nguyễn Tư Thành (Phượng Lai), Trịnh Xuân Dương (Yên Định), Trịnh Thiện Dự (Yên Định), Phạm Viết Khởi (Hương Thị), Phạm Hữu Thi (Yên Hoành), Hà Duy Cán (Yên Cứu), Hoàng Trung Thông (Đông Lý), Trịnh Tuần, Trịnh Bưu (Yên Định), An Đôn Tố (Đa Lộc), Bùi Văn Đồng (Diên Hy), Hà Phạm Huy (Đan Nê)… Trường học ở Yên Định đã có rất sớm, từ năm Minh Mệnh thứ 7 (1827).

Để đạt được thành tựu về cử nghiệp, nhiều làng xã, đã đề ra hình thức khuyến học như miễn phu đài, tạp dịch, đặt học điền. Nhiều người như ông nghè Trần Ân Chiêm, trở thành thày dạy nổi tiếng, có 3 học trò thi đỗ đại khoa.

Truyền thống hiếu học của Yên Định ngày nay vẫn được kế tục. Các xã Định Hải, Định Thành, Định Liên… vẫn có hàng chục nhà khoa học đạt học vị Tiến sĩ ở trong nước và nước ngoài; đã có cả học trò đạt giải cao kỳ thi toán quốc tế.

Ngoài ra, Yên Định có nhiều nhà quản lý, chính trị, quân sự, ngoại giao và văn học lỗi lạc, tiêu biểu như Khương Công Phụ, Hoàng Hối Khanh, Ngô Kinh, Trịnh Thiết Trường, Hà Tông Huân, Lê Đình Kiên…

Đội ngũ nhân tài của Yên Định ngày càng nối tiếp đông đảo và có mặt trên nhiều lĩnh vực.

Điều kiện xã hội của Yên Định - Thanh Hóa

Văn hoá nổi bật

Truyền thống chống giặc ngoại xâm

Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh – Triệu Quốc Đạt chống lại nhà Ngô, làm cho “toàn thể Châu Giao chấn động”. Cuộc khởi nghĩa này là “đỉnh cao của phong trào nhân dân thế kỷ II – III, nổ ra ngay trong thời kỳ mà bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh, đã củng cố được ách thống trị trên đất nước ta và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa của chúng”.

Đào Lang, người làng Bùi Đỉnh (Yên Phú) là tướng tài lập được nhiều công tích trong cuộc kháng chiến chống Tống (lần thứ nhất). Năm 1083 lại được cử làm chỉ huy công việc đào sông từ Đan Nãi đến Bà Hóa. Ông đã cho đào xong các kênh từ Đồng Cổ (Yên Thọ) qua Hà Xá, Làng Bùi (Yên Phú – Yên Giang) nối sông Mã với sông Cầu Chày và nhiều kênh khác, tạo nên hệ thống giao thông đường thủy hoàn chỉnh, thuận lợi cho đi lại và sản xuất nông nghiệp.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đầu thế kỷ XV, đã được nhân dân Yên Định hết lòng hưởng ứng. Ngô Kinh, người làng Đồng Phang (Định Hóa) vốn là gia thần của Lê Khoáng, cùng con là Ngô Từ, đều có công trong việc cung cấp lương thực cho nghĩa quân, do đó Lê Khoáng được phong là Thái phó, con được phong là Thái bảo.

Sự hy sinh của người phụ nữ thôn Phúc Trí (Yên Lâm) đã góp phần làm nên thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài việc cho người con trai duy nhất gia nhập nghĩa quân, bà còn tự mình thắp sáng ngọn đèn trên núi cao để báo cho Lê Lợi biết địch đang từ Đồn Trang, Bến Kiểu kéo đến, để nghĩa quân kịp thời đối phó. Nhiều địa danh như Vực Sống, Vực Sáng, Vực Bỏ trên sông Cầu Chày còn ghi lại những năm tháng gian khó của nghĩa quân Lam Sơn.

Ngoài ra, đây còn là nơi sinh ra Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, vợ của Lê Thái Tông, mẹ của Lê Thánh Tông – một vua hiền tài văn – võ song toàn.

Sự kiện quân Pháp đánh chiếm Thanh Hóa đã làm nổi lên tinh thần kháng chiến của nhân dân các địa phương trong tỉnh. Một hệ thống đồn lũy trên vùng đất rộng lớn ven sông Mã và con đường kéo dài từ huyện Yên Định lên Cẩm Thủy tới La Hán (Bá Thước), đã được hình thành. Trịnh Văn Nghi – tức Cai Văn (ở Đan Hạ – Yên Quý) đã xây dựng và giữ chốt tiền tiêu Đan Nê.

Nhằm đối phó với phong trào, Tướng Ornét đã phái Thiếu tá Tairion đem quân từ Nam Định vào Thiệu Hóa, vượt sông Chu tiến sâu vào Yên Định. Trong hơn 1 tháng (25-3 đến 26-4-1886) nhiều trận đánh đã diễn ra ác liệt giữa nghĩa quân và giặc Pháp trên đất Yên Định. Địch đã bị tiêu diệt nhiều tên trong các trận đánh ở An Lũy (Quán Lào) ngày 26-3 và các trận Cầu Si, Thạch Lẫm. Lê Đình Phơn (Cai Phơn quê Thiết Đanh), Quản Lĩnh (Kênh Khê), Lãnh Bốc (Bốc Cát) đóng quân ở Vạn Lại (gần Ngọc Lặc và Đa Nẫm – Yên Giang) đã tấn công giặc ở đồn Cầu Si diệt nhiều tên, trong đó có Tri huyện Điều, tay sai đắc lực của giặc Pháp. Để trả đũa, kẻ địch cho triệt hạ Bản Đanh, Làng Lào. Cai Phơn, Quản Lĩnh đã đem quân đánh địch ở Dộc Nghề, diệt nhiều tên rồi giao chiến với chúng ở gần Mau Tròn – cách đồn Cầu Si độ 1 km. Trong trận này Đốc Xáo (Thiết Đanh) đã anh dũng hy sinh; Cai Phơn sa vào tay giặc và bị giết.

Kể từ đây, địa hạt Thanh Hóa đã hình thành một số trung tâm kháng chiến mạnh, trong đó có Yên Định. Quan Hóa nằm giữa các lưu vực sông Mã, sông Chu, sông Cầu Chày đặt dưới sự chỉ huy của Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao. Các trung tâm này không dừng lại và đóng khung ở miền núi mà đã lan rộng xuống vùng đồng bằng.

Đến giữa năm 1886, các cuộc đấu tranh trên chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Nhu cầu tập hợp lực lượng, tổ chức phong trào theo quy mô lớn hơn trở nên cấp bách. Hội nghị Bồng Trung (Vĩnh Tân – Vĩnh Lộc) đã quyết định cử Phạm Bành, Đinh Công Tráng xây dựng cứ điểm Ba Đình (Nga Sơn), Hà Văn Mao phụ trách tổ chức cứ điểm Mã Cao (thuộc Yên Giang, Yên Phú ngày nay).

Chỉ huy cứ điểm Mã Cao ngoài Hà Văn Mao còn có Tôn Thất Hàm. Nhân dân các làng quanh khu vực đã hăng hái gia nhập nghĩa quân, trong đó có nhiều người tiêu biểu như Quản Khối (Cai Khối) người họ Trịnh Cảnh Thụy – làng Hổ Bái (Yên Bái), Trịnh Văn Nghị tức Cai Văn quê ở Đan Hạ, Tú Vanh quê ở Mao Lộc (Yên Định), Quản Bổng, Đội Kiên (người Mường ở Làng Mé, Yên Lâm), Nguyễn Văn Toản, Nguyễn Văn Phúc ở Bùi Thượng (Yên Phú) và Trần Văn Trình ở Bùi Hạ (Yên Phú)…

Cuối năm 1886, thực dân Pháp đã huy động một lực lượng binh lực lớn tấn công vào cứ điểm Ba Đình. Dưới sự chỉ huy của Phạm Bành, Đinh Công Tráng, nghĩa quân đã đánh trả quyết liệt, giáng cho địch nhiều đòn nặng nề, phá vỡ vòng vây chuyển lên căn cứ Mã Cao, tiếp tục hoạt động, củng cố hệ thống đồn lũy, bố trí lại lực lượng chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.

Nhằm tấn công vào Mã Cao, Đại tá Brisse đã giao cho Trung tá Dost đem quân theo hướng Bắc từ Hà Trung – Thạch Thành; Trung tá Mesanse đem quân vào Thiệu Hóa, lên Thọ Xuân; hai cánh quân này gặp nhau ở Bùi Hạ (Yên Phú) để chuẩn bị đánh vào căn cứ. Ngoài ra quân Pháp còn dành một lực lượng hộ tống binh thuyền chở vũ khí, lương thực theo sông Mã, qua ngã Ba Bông (Vĩnh Lộc), vào sông Cầu Chày (Yên Định) để tiếp tế cho hai cánh quân. Tổng số binh lực của Pháp tập trung tấn công Mã Cao lên tới 63 sĩ quan, 897 lính Pháp, 2.333 lính tập và 1.747 phu.

Chiến sự đã diễn ra quyết liệt trong ngày 2-2-1887. Quân Pháp bị lọt vào các ổ mai phục ở đồn chính và các đồn phụ, phải cầu cứu pháo binh yểm trợ. Ngoài Mã Cao, chiến sự còn diễn ra quyết liệt ở Hồ Sen, Cửa Bao. Khi đêm xuống, hai bên tạm ngừng chiến. Nghĩa quân được lệnh di chuyển sang Thọ Xuân, Ngọc Lặc.

Mặc dù đồn Mã Cao bị vỡ, nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu ở Thung Voi, Thung Khoai. Địch nghi binh ở phía nam, dồn lực lượng tấn công ở hướng đông – bắc, dùng bè mảng vượt sông Cầu Chày. Đồn Thung Voi bị rơi vào tay giặc. Nghĩa quân chuyển lên Thung Khoai, phục kích thắng lợi ở Cầu Tre (Thọ Xuân) bất ngờ tập kích dồn Yên Lược. Quân Pháp dồn lực lượng về đồn Cây Khế nhưng vẫn bị tập kích, sa vào bẫy chông đành phải rút lui. Ngày hôm sau chúng từ làng Phúc Địa vượt sông Cầu Chày, xuyên qua làng Me, tấn công vào đông bắc Thung Voi, buộc nghĩa quân phải rút sang Ngọc Lặc.

Chạm trán nảy lửa với nghĩa quân, địch phải thú nhận: căn cứ Mã Cao còn có thể củng cố lợi hại hơn căn cứ Ba Đình nhiều và chúng ta phải tỏ lòng kính phục xứng đáng với người chỉ huy đã tổ chức và biết lợi dụng địa hình và những phương tiện phòng thủ sẵn có một cách chính xác như vậy(8). Tinh thần chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân đã để lại trong lòng nhân dân niềm cảm phục sâu sắc:

– Cửa Bao có lũy có hào

Cũng chờ giặc vào thử súng, thử tên.

– Hà Văn, Cầm Bá một đoàn

Cùng nhau gánh vác giang sơn nước nhà

Man dân như lối Thanh Hoa

Trung châu ít kẻ vượt ra bậc ngoài

Tiếc thay gặp vận suy mài

Xui nên hào kiệt thiệt tài kiết suy.

Tiếp nối truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân trong huyện, một số sĩ phu và văn thân ở Yên Định đã tìm con đường cứu nước theo xu hướng mới. Hà Phạm Huy, đậu cử nhân, từng bàn việc trong Quốc sử quán, sau ra làm Tri huyện. Ông là người Đan Nê (Yên Thọ), vì tính cương trực, hay làm thơ châm biếm Pháp và quan lại Nam triều nên cũng phải về hưu sớm.

Cử nhân Trịnh Bưu người làng Yên Định (Định Tân) là một nhà báo tài ba xuất hiện trên các tờ Thực Nghiệp, Khai Hóa, Thanh Nghệ Tĩnh tân văn. Cử nhân Lê Thực Đĩnh cũng thông qua thơ văn, nêu những tấm gương cao đẹp của các bậc yêu nước thương nòi.

Thật đáng tự hào với những trang sử chống thực dân Pháp hết sức vẻ vang của địa phương. Địa danh Mã Cao cùng bao tên tuổi của các thủ lĩnh, nghĩa quân và sĩ phu, văn thân trên đất Yên Định chắc chắn vẫn còn sống trong lòng quê hương đất nước. Nó đã tiếp nối truyền thống ngàn năm mà Bà Triệu, Ngô Thị Ngọc Dao đã từng viết lên những trang ngời sáng.

Lễ hội, tôn giáo

Tưởng nhớ đến công lao của tổ tiên là một mỹ tục đáng khích lệ. Hầu như làng nào cũng có đền, miếu, phủ, nghè để quanh năm hương khói. Nhiều đền thờ ở địa phương đã trở thành quốc miếu như đền Đồng Cổ (Yên Thọ) phụng thờ thần Trống đồng, nghè Hổ Bái (Yên Bái) thờ thần Hợp Lang – con Lạc Long Quân; phủ Lời (Yên Trung), nghè Đắc Lộc (Yên Thọ) thờ Lý Thường Kiệt, đền Khương Thượng thư (Định Thành), đền Đồng Phang (Định Hòa) thờ Ngô Thị Ngọc Dao, tiệp dư của Lê Thái Tông và là mẹ Lê Thánh Tông. Bên cạnh đó là hàng chục các đền miếu khác thờ các nhân thần, thiên thần được dựng lên ở Trịnh Điện, Thiết Đanh, Căng Thượng, Ngọc Vực, Duyên Hy. Nhiều ngôi đình bề thế được dựng lên ở Sét, Phù Hưng, Cẩm Trướng ngoài chức năng sinh hoạt cộng đồng, còn được dùng làm nơi thờ phụng thành hoàng hoặc sức mạnh siêu nhiên khác.

Các lễ, hội ở Yên Định là một hoạt động tiêu biểu về văn hóa – nghệ thuật. Từ những trò kéo chòa rào ở Điện Thượng, săn cuốc ở Huê, săn chim ở Kẻ Lào đến chọi voi ở Chiềng, vật ở Bộc được lưu truyền qua các đời, đều có trò diễn như trò khách trong hệ thống trò Chụt ở Thiết Đanh, trò Chèo tàu trong hệ trò Chiềng…

Tục ngữ – ca dao xuất hiện ở Yên Định là vốn quý trong kho tàng văn học dân gian, ghi nhận về những hiện thực thiên nhiên đầy khắc nghiệt nhưng cũng chứa đựng nhiều nét đẹp thân thương. Quê hương thực sự là những tình cảm thiêng liêng cao quý đọng lại qua các thế hệ và lớp người:

Đông Kinh có bức địa đồ

Có sông tắm mát, có hồ Ngọc Châu

Trước làng thì có bãi dâu

Đàng sau voi ngựa đứng đầu về am

Làng ta tục sĩ nhân thuần

Địa linh, nhân kiệt hồng quần kém ai…

– Chè Đồng Sông, bông Đồng Ải

– Đất Đào Ngang khoai lang thơm ngọt

(Yên Phú)

– Làng Bốc đi tát, làng Cát đi câu, làng Châu đan thúng

(Yên Lạc)

– Lũ Phong nước mắm, buôn trâu

Các bà, các chị buôn cau, buôn chè

(Yên Phong)

– Ra về én bắc, nhạn đông

Hai hàng châu lệ đẫm sông Cầu Chày

– Ra về em những nhớ mong

Hai hàng châu lệ đẫm sông Cầu Chày…

Bên cạnh đó, người dân Yên Định còn sáng tạo ra những làn điệu dân ca phong phú với hát đối đáp, hát ghẹo… Một số làng như Tràng Lang – Nam Trịnh; Quan Trì – Diên Thượng; Bái Thủy – Phúc Lập lại có hệ thống các bài hát kết chạ diễn tả lại cảnh ngộ hai làng giúp nhau khi hoạn nạn, coi nhau như chạ anh, chạ em.

Chuyện kể dân gian ở Yên Định cũng hết sức phong phú. Các sự tích đều xoay quanh các vị thiên thần, sơn thần, thủy thần, các nhân vật được thờ phụng ở các đền, miếu hoặc tên làng, xóm, cánh đồng, trận đánh, khúc sông.

Đạo Phật có mặt ở Yên Định chậm nhất vào thời nhà Đinh, dấu vết còn được ghi nhận ở chùa Hưng Phúc (Định Tiến). Từ thời nhà Lý đến Hậu Lê, đạo Phật phát triển mạnh với hệ thống các chùa ở Trịnh Lộc (Yên Phú), Quy Sơn (Định Hải). Đạo Phật ở đây có sự đan xen, hòa đồng rất rõ với tín ngưỡng dân gian.

Thiên Chúa giáo xâm nhập vào Yên Định từ thế kỷ XIX, chủ yếu là các làng dọc sông Mã, sông Cầu Chày như ở Định Công, Định Tân, Yên Phong, Quý Lộc, Yên Thịnh, Yên Thọ, Yên Thái, Định Tăng; ngoài ra còn có ở Định Tường, thị trấn Quán Lào, Yên Lâm. Nhiều giáo dân từ Nga Sơn, Quảng Xương và ở các tỉnh Ninh Bình, Nam Định đến Yên Định từ đầu thế kỷ XX, đã dựng lên một số họ đạo ở địa phương.

Các làng nghề truyền thống

Nghề nông là nghề chính của đại đa số nhân dân trong huyện. Chăn nuôi khá phát triển. Đây là khu vực có tiếng về nhiều trâu, bò giống tốt, nhất là các tổng Khoái lạc, Đan Nê. Một số vùng thuộc địa hình đồi núi như Yên Thọ, Yên Lâm, Định Công, Định Tiến, Định Thành, Định Hải nuôi nhiều dê. Cả huyện lại có đến 420 ha ao hồ, đầm hoang đã được khai thác để nuôi cá, trong đó có các hồ Cựu Mã giang (Yên Bái, Yên Trung), Mau Bưa (Yên Thái), Thắng Long (Yên Lâm), Sen (Yên Giang) là lớn hơn cả.

Nghề thủ công tuy cũng đa dạng, nhưng không phát triển mạnh, chủ yếu là nghề đan thúng, rổ rá… ở làng Châu, làng Cát (Yên Lạc), nghề nung gạch, ngói ở Cẩm Trướng (Định Công) và một vài ngành nghề nhỏ, lẻ khác.

Buôn bán có lẽ ra đời sớm, có những điều kiện phát triển để hỗ trợ cho nền kinh tế tiểu nông ở địa phương vốn đã khép kín. Vùng Đan Nê xưa đã được sách Đại Nam nhất thống chí mô tả như là một trung tâm thương mại khá sầm uất, vì có “bến đò cổ, dân cư buôn bán khá đông. Đó cũng là nơi đô hội của vùng Ái Châu vậy”. Thời nhà Nguyễn, Yên Định đã có 3 chợ lớn: chợ Sét, chợ Yên Định (Định Tân) và chợ Bái Châu, đến nay hệ thống chợ trong huyện được mở hầu hết khắp địa bàn.

Ngoài hai thị trấn, Yên Định còn có nhiều thị tứ phân bổ khắp trong huyện như ở Yên Lâm, Yên Tâm, Yên Bái, Kiểu, Đồn Trang, Sét, Dền, Cầu Si, Cẩm Trướng. Hầu như xã nào cũng có chợ(4). Hệ thống chợ và nhịp độ buôn bán, trao đổi ở các thị trấn, thị tứ, chính là bộ mặt của hoạt động thương mại của Yên Định.

Ca dao, tục ngữ

Tục ngữ – ca dao xuất hiện ở Yên Định là vốn quý trong kho tàng văn học dân gian, ghi nhận về những hiện thực thiên nhiên đầy khắc nghiệt nhưng cũng chứa đựng nhiều nét đẹp thân thương. Quê hương thực sự là những tình cảm thiêng liêng cao quý đọng lại qua các thế hệ và lớp người:

Đông Kinh có bức địa đồ

Có sông tắm mát, có hồ Ngọc Châu

Trước làng thì có bãi dâu

Đàng sau voi ngựa đứng đầu về am

Làng ta tục sĩ nhân thuần

Địa linh, nhân kiệt hồng quần kém ai…

– Chè Đồng Sông, bông Đồng Ải

– Đất Đào Ngang khoai lang thơm ngọt

(Yên Phú)

– Làng Bốc đi tát, làng Cát đi câu, làng Châu đan thúng

(Yên Lạc)

– Lũ Phong nước mắm, buôn trâu

Các bà, các chị buôn cau, buôn chè

(Yên Phong)

– Ra về én bắc, nhạn đông

Hai hàng châu lệ đẫm sông Cầu Chày

– Ra về em những nhớ mong

Hai hàng châu lệ đẫm sông Cầu Chày…

Bên cạnh đó, người dân Yên Định còn sáng tạo ra những làn điệu dân ca phong phú với hát đối đáp, hát ghẹo… Một số làng như Tràng Lang – Nam Trịnh; Quan Trì – Diên Thượng; Bái Thủy – Phúc Lập lại có hệ thống các bài hát kết chạ diễn tả lại cảnh ngộ hai làng giúp nhau khi hoạn nạn, coi nhau như chạ anh, chạ em.

Chuyện kể dân gian ở Yên Định cũng hết sức phong phú. Các sự tích đều xoay quanh các vị thiên thần, sơn thần, thủy thần, các nhân vật được thờ phụng ở các đền, miếu hoặc tên làng, xóm, cánh đồng, trận đánh, khúc sông.

Điều kiện giao thông của Yên Định - Thanh Hóa

Giao thông thủy bộ của Yên Định khá thuận lợi, sớm phát triển cũng là một yếu tố thúc đẩy guồng máy kinh tế (thờ nhà Nguyễn đã có 2 bến đồ đông đúc người qua lại buôn bán là: bến Sét và bến Ngọc Hoạch).

Nhìn chung hệ thống đường bộ chỉ phù hợp cho việc đi lại trong những ngày nắng ráo, khi mưa thì đi lại trở nên khó khăn hơn, hạn chế việc giao lưu giữa các vùng. Có lẽ vì vậy mà tuyến đường thủy trở nên có ý nghĩa, phục vụ tốt hơn cho việc vận chuyển hàng hóa và thông thương với nhiều vùng của đất nước.

Sông Mã có một đoạn chảy trong địa phận Yên Định dài 30,5 km, lòng sông rộng và sâu, tàu thuyền trọng tải lớn có thể cập bến dễ dàng ở Bến Hoành, Sét, Bến Kiểu, Yên Thọ, Đồn Trang. Từ đây tàu thuyền có thể xuôi đến Hàm Rồng, Cửa Hới ra biển Đông.

Sông Cầu Chày, từ ngã ba Định Công (nơi sông Cầu Chày hợp với sông Mã), thuyền bè dễ dàng ngược bến Hải Quật, Bái Ân, Cầu Si hoặc lên Cầu Lim, Hoạch Thôn với chiều dài 25 km. Nhìn trên đại thể, hệ thống chợ, đường giao thông khá thuận lợi đã làm cho hoạt động kinh tế của Yên Định càng trở nên phát đạt và phồn thịnh hơn.

Thông tin về huyện Yên Định (Thanh Hóa)

Huyện Yên Định có 26 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 4 thị trấn: Quán Lào (huyện lỵ), Quý Lộc, Thống Nhất, Yên Lâm và 22 xã: Định Bình, Định Công, Định Hải, Định Hòa, Định Hưng, Định Liên, Định Long, Định Tân, Định Tăng, Định Thành, Định Tiến, Yên Hùng, Yên Lạc, Yên Ninh, Yên Phong, Yên Phú, Yên Tâm, Yên Thái, Yên Thịnh, Yên Thọ, Yên Trung, Yên Trường.

Hiện nay, Yên Định là một trong hai huyện có số thị trấn nhiều thứ hai cả nước (cùng với huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang với 4 thị trấn trực thuộc).

Vị trí địa lý

Yên Định là một huyện bán sơn địa nằm dọc theo sông Mã, cách thành phố Thanh Hóa 28 km về phía tây bắc, có vị trí địa lý:

  • Phía đông giáp huyện Vĩnh Lộc với ranh giới là sông Mã
  • Phía tây giáp huyện Ngọc Lặc và huyện Thọ Xuân
  • Phía nam giáp huyện Thiệu Hóa với ranh giới là sông Cầu Chày
  • Phía bắc giáp huyện Cẩm Thủy.

Huyện Yên Định có diện tích 228,83 km², dân số năm 2019 là 165.830 người, mật độ dân số đạt 725 người/km².

Đây là địa phương có tuyến Đường cao tốc Ninh Bình – Thanh Hóa đang được xây dựng đi qua.

Điều kiện tự nhiên

Yên Định có diện tích 210,24 km² (21.024 ha), nằm ở phía tây bắc thành phố Thanh Hóa, thuộc vùng đồng bằng trung du – bán sơn địa, kẹp giữa lưu vực sông Mã và sông Cầu Chày.

Đồng bằng Yên Định được cấu tạo bởi phù sa trải ra trên một bề rộng hơi nghiêng về phía đông nam, còn rìa tây bắc là các dải đất cao từ 2,8m đến 15m, được cấu tạo bằng lớp phù sa cổ của sông Mã và sông Cầu Chày. Những đồi núi sót lại có độ cao trung bình 200m-300m, hợp nên từ các đá phún trào, đá vôi, cát kết và đá phiến.

Xa xưa, Yên Định được bao phủ bởi những cánh rừng rậm rạp, với lim ở Định Tăng, đinh ở Định Tường, rù rì ở Yên Phong cùng nhiều cánh rừng khác trải khắp vùng Yên Thọ, Yên Lạc, Định Hòa, Định Bình, Định Thành...

Ngày nay, rừng tự nhiên hầu như không còn, thay vào đó là những vùng đất trồng tre, luồng, đất trồng cây lâm nghiệp theo dự án 327, tập trung ở các xã Yên Lâm, Yên Giang, Nông trường Thống Nhất, Yên Tâm, Yên Thịnh, Yên Hưng, Định Tiến với diện tích 836 ha, chủ yếu trên đất dốc, cồn, bãi ven sông, hồ, đầm, hón, sông cụt.

Khí hậu, lượng mưa

Khí hậu của Yên Định thuộc dạng nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều, nền nhiệt cao, hàng năm có 1.700-1.800 giờ nắng; gió mùa đông bắc thịnh hành vào mùa đông, gió mùa tây nam thịnh hành vào mùa hè. Khí hậu như vậy là thuận lợi cho cây trồng phát triển, nhưng thiên tai, nhất là lụt bão và khô hạn luôn luôn là mối đe dọa đối với sản xuất nông nghiệp, tài sản và sinh hoạt của con người. Khi mưa đạt tới 200-300mm thường gây úng lớn. Tuy nhiên lượng mưa tập trung theo từng thời điểm và phân bố không đều trong năm nên dễ gây khô hạn cho một vùng rộng lớn, vì mạch nước ngầm bị khô kiệt hoặc gây ra nạn rửa trôi làm cho 25% ruộng đất bị bạc mầu.

Từ đầu nguồn đến Cẩm Thủy, sông Mã chảy cuồn cuộn bên những vách đá vôi đứng sững rồi chảy qua địa phận Yên Định với chiều dài 30,5 km, là ranh giới tự nhiên giữa 2 huyện Yên Định và Vĩnh Lộc. Sông Cầu Chày, tên là Ngọc Chùy, nước chảy bằng lặng, xưa nổi tiếng vì nhiều chướng khí nên có câu ca: "Cầu Chày chó lội đứt đuôi".

Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản của Yên Định chủ yếu là vật liệu xây dựng như đá vôi, cát sỏi, đất sét có trữ lượng lớn phân bổ khắp nơi. Riêng đất sét vùng Cẩm Trướng (Định Công) mỗi năm có thể sản xuất được từ 8-10 triệu viên gạch ngói.

Thủy văn

Do độ dốc lòng các con sông ở đây cao cho nên sự chênh lệch giữa chế độ thủy văn với địa hình khá lớn; chỉ cần mưa to thì hệ thống tự tiêu, tự chảy đã mất tác dụng. Công tác trị thủy ở Yên Định trở nên quan trọng và cấp thiết. Toàn huyện đã có 5 trục tiêu lớn (Tường Vân, Tân Bình, Yên Thôn, Cầu Khải, Kiểu) đảm bảo cho 3.000 ha đất canh tác trong điều kiện mưa lũ. Trạm bơm nam sông Mã và trạm bơm lẻ ở các xã đã khắc phục cơ bản vấn đề hạn cho hàng ngàn ha đất canh tác ở địa phương.

Hàng ngàn năm qua, nhân dân Yên Định đã bỏ bao công sức tạo nên hàng trăm km đê đại hà, đê quai, đê con trạch dọc các triền sông; nhưng cũng chỉ hạn chế được một phần tác hại do lũ lụt gây ra. Trong khi đó lại ngăn chặn việc bồi trúc phù sa cho các vùng trũng, do vậy đã tạo ra 3 khu vực lầy thụt rộng tới 3.500 ha:

– Vùng 1 có 3 xã: Định Hòa, Định Thành, Định Công.

– Vùng 2 có 4 xã: Yên Bái, Yên Trường, Yên Trung, Yên Thọ.

– Vùng 3 có 5 xã: Định Tân, Định Bình, Định Long, Định Liên, Định Hưng thuộc khu vực trũng nông.

Lời kết cho việc có nên đầu tư đất Yên Định không?

Như đã phân tích ở bên trên trên của chúng tôi về việc có nên mua đất Yên Định không? Có nên đầu tư đất Yên Định không? Phần nào đã giúp bạn nắm được một số các thông số cơ bản để đầu tư đất tại huyện Yên Định - Thanh Hóa, quý vị lưu ý, bài viết mang tính phân tích cá nhân, chúng tôi tuyên bố miễn trừ trách nhiệm với các hoạt động sử dụng thông tin của bạn. Và điều đặc biệt là khi mua đất Yên Định thì bạn cần kiểm tra lại quy hoạch xem thửa đất có vướng quy hoạch gì không nhé! Về đầu tư đất Yên Định, chúng tôi xin tóm tắt lại một số ý chính như sau:

.Yên Định giáp với các địa phương như: huyện vĩnh lộc (thanh hóa), huyện ngọc lặc (thanh hóa), huyện thọ xuân (thanh hóa), huyện thiệu hóa (thanh hóa), huyện cẩm thủy (thanh hóa), nên có điều kiện giao lưu với các huyện này, tuy nhiên do tiếp giáp toàn bộ với các huyện mà không có thành phố, thị xã nào nên cũng là điểm bất lợi cho đầu tư nhà đất tại Yên Định. ..đầu tư bất động sản gần cửa khẩu tại huyện Yên Định - Thanh Hóa cũng khá hấp dẫn, bởi lẽ Yên Định có cửa khẩu: ..

Biểu đồ giá đất huyện Yên Định (Thanh Hóa) 05/2023 đến 04/2024

Dưới đây là bản đồ thể hiện xu hướng giá nhà đất huyện Yên Định (Thanh Hóa) 05/2023 đến 04/2024 trong thời gian 12 tháng gần đây, giá trung bình chúng tôi tham khảo tại một số kênh rao vặt bất động sản. Nếu tháng nào chưa thống kê được sẽ có giá trị bằng 0.

Trả lời

Hãy chọn một tỉnh thành bên dưới đây để xem thông tin về đất đai như Bảng giá đất đai, giá giao dịch đất đai hiện nay, hệ số điều chỉnh giá đất, thông tin quy hoạch... và nhiều thông tin hơn nữa về tỉnh thành đó.